(tiếp theo)
Trong đám người đổ tới Nhà hát lớn xem nữ sinh biểu diễn toàn
là các “quan tây” với “ các quan ta , áo gấm dài , khăn xếp, các quan bà tuy cao tuổi nhưng đều đánh phấn trắng
lốp. Tất nhiên toàn là bọn hút máu mủ
dân như “gia đình Nghị Khanh, mụ nghị, mụ
tuần Vi, cậu tú Tường, cậu Cử
Phát, đủ bộ…” và vợ chồng huyện Môn, được Nguyễn Đình Thi dụng công mô tả nhất . Đưa vợ
đi coi hát ở Nhà hát lớn mà quan huyện trẻ, tây học này cứ hậm hực :
”Giả thử Phượng chiều lão
ta một lần đi nữa cũng có mất mát gì…Sao en ngu thế . Nói thế nào cũng không nghe. En ăn cơm của
chồng thì cũng phải giúp chồng chứ. Ông huyện Môn cười nhạt. Chẳng qua là vô ơn
bạc nghĩa, đồ bạc…bạc…”.
Quả thực cái thuật ngữ “bôi đen xã hội” mới xuất hiện thời Nhân
văn Giai Phẩm và những năm về sau đã được Nguyễn Đình Thi sử dụng không phải
như công cụ phản kháng của các nhà văn
với thực tại đang diễn ra mà chính là để
hạ thấp xã hội Việt Nam thời “phong kiến - đế quốc” một cách “xuất sắc”.
Thế rồi buổi biểu diễn của nữ sinh Hà Nội tại Nhà hát lớn cũng
bắt đầu :’Có hai đoàn thiếu nữ Pháp và
Nam , các cô gái Pháp mặc váy trắng như bông tuyết, các cô gái nam cũng áo dài
trắng, quần trắng . Tất cả đám bông hoa biết nói ấy đã cất tiếng lanh lảnh hát
bài Macxâye…” .
Cái thứ nhãn quan nhìn
đâu thấy …”chính trị” khổ vậy. Nó làm
cho nhà văn chẳng còn nhận ra vẻ hồn nhiên, tươi trẻ, giọng ca thánh thót của
các cô gái Hà Nội , mà chỉ nhăm nhăm bôi bác “đám các quan ông, quan bà, các nhà trưởng giả ngồi xem chỉ nghe thấy
tính tinh nhí nha nhi nhô, không hiểu gì , nhưng thấy hai cô đánh đàn mặc đẹp
thế và uốn các ngón tay trắng muốt cứ
cong lên cong xuống như múa trên cái đàn đắt tiền thì hẳn là đàn phải hay
lắm…” .
Rồi tới màn múa :
“Các cô mặc váy ngắn cũn
cỡn và mỏng tanh, nom thấy thân hình lồ
lộ, dón đầu ngón chân chạy đi chạy lại , ngửa người ra uốn éo…”
Thì đúng là một cái nhìn khắt khe, đe nẹt của một anh cán bộ văn hoá cấp xã chứ không còn là của
một nhà văn lớn với tâm hồn rộng mở đón
nhận mọi màu sắc trần gian…
Thế còn hình tượng “tiểu thư Hà Nội” - những “dáng kiều thơm”, những “đôi mắt
huyền”, “những thiếu nữ buồn không nói”…đã được Nguyễn Đình Thi khắc hoạ như
thế nào ?
Trong cả cuốn tiểu thuyết, khi viết về loại nhân vật loại này,
ngòi bút của nhà văn dường như được “giải toả” khỏi sự lên gân cốt, sự bốc phét
trong những trang viết về những nhà cách mạng và quần chúng cách mạng để khoan khoái, thích thú đi sâu vào cái xã
hội “xanh xanh đỏ đỏ” tiểu tư sản mà ông phải lên án, cải tạo nó nhưng trong
bụng lại ngầm thích thú nó.
“ Phượng đến trước tấm
gương lớn . Ngực còn thở mạnh . Phượng đứng ngắm nghía cái cái dáng người trong
gương . nàng giơ cánh tay tròn lẳn lên và nghiêng người nhìn những đường cong,
rồi bỗng lột cái áo nịt , xem lại ngực của mình. Đôi vú tròn và rắn chắc như
của một cô gái mười tám , đôi mươi , người Phượng vẫn trẻ nguyên như hồi chưa
chồng, không ai có thể bảo cái tấm thân trong gương kia hai mươi sáu tuổi. …”
Ông nhà văn có vẻ thích thú cái giấc ngủ nướng của người đàn bà
đẹp đến độ mô tả nó thật tỉ mỉ :
“Đã trưa lắm rồi thì
phải. Qua cửa sổ , ánh sáng như nhức nhối vì không được ùa vào . Phượng cố nằm
thêm mấy phút nữa, chăn và gối êm vuốt ve vào da thịt người đàn bà trẻ thoáng
rạo rực và tự cười mình. Mình hư lắm,
Phượng tự bảo…”
Trong đời tình ái của Phượng ít ra là có 3 người đàn ông.
Người trước hết là chồng của Phượng, huyện Môn, lấy nhau
vì…chàng giàu.
Người thứ hai là “người yêu đầu đời”, hoạ sĩ Tư, chia tay nhau
vì…chàng nghèo, cả đời không chịu vẽ tranh đàn bà đẹp để bán “Người mẫu của Tư là những em bé ở góc phố,
là một người đàn bà bán chuối…bà mẹ bác thợ giặt…”, ao ước “
vẽ được những bức tranh lớn về đời sống trên sông Hồng Hà “ ( hẳn nhà văn được gợi ý bởi hoạ sĩ Nga
Reepin trong tranh lớn “Người kéo thuyền trên sông Vonga ) sau
này chắc chắn sẽ thoát ly làm cách mạng.
Người thứ ba là hoạ sĩ Thanh Tùng – hoạ sĩ của tầng lớp trưởng
giả, “ hầu hết là vẽ những người đàn bà , những thiếu nữ, e
lệ, mơ màng, mắt một mí dài và nhỏ kiểu “phương đông” đang xoã tóc ngồi đọc
sách chữ nho hoặc đan áo bên một khung cửa sổ tròn hoặc bên một lọ hoa…:” . Tất
nhiên tranh của Thanh Tùng bán chạy ào
ào, chàng trở nên giàu có, sống sang trọng và chính cái đó đã hút Phượng nhào
tới với chàng như con thiêu thân, chỉ trong khoảnh khắc đã ngã vào tay chàng
hoạ sĩ trưởng giả cắm sừng lên đầu chồng.
Tiểu thư Hà Nội dưới cái nhìn “thiên kiến giai cấp” của Nguyễn
Đình Thi trở nên hết sức tầm thường, hám của, dâm đãng, thiếu ý thức làm vợ .
Đó là cái nhìn hẹp hòi của một anh chàng
nghèo hèn , sống trốn lánh bất hợp pháp vì hoạt động cách mạng , đứng ngoài vỉa
hè mà nhìn vào các gia đình gia giáo nên không tránh khỏi tức tối, ghen ghét.
Sự thực, những tà áo trắng nữ sinh Hà Nội sống hồn nhiên, trong trắng và tử tế hơn nhiều những gì Nguyễn Đình Thi
dụng công viết ra.
Như thế liệu ông có đáng là đứa con yêu của người Hà Nội như
nhiều người tâng bốc ?
Nữ sinh thì như thế, còn các thày cũng được ông nhà văn mô tả
chẳng ra cái hồn gì. Trong trường có nhiều học sinh nhặt được truyền đơn của
cộng sản và dâu trong người . Viên đốc
học người Pháp bắt các thày đi khám :
“ Mấy ông giáo , mặt như
chàm đổ đi làm việc của những tên mật thám. Phần đông họ khám qua quýt cho xong
chuyện , nhưng cũng có một hai người bắt học trò cởi áo rũ túi cho lão đôc Tây
nhìn thấy sự mẫn cán của những tên đầy tớ trung thành…”
Các thày An Nam đã “hèn” đến thế, tất nhiên các viên chức Pháp
phải hung hăng tàn bạo.
“ Viên giám thị xấn xổ
chạy xuống và lồng tới chỗ đám đông. Thấy một cậu học trò tay còn cầm tời giấy,
y quát bằng tiếng Pháp :” Cái gì đây ? Mày cầm cái gì đây ? – Một cái tát mạnh
làm cậu bé chúi đi. “Tao sẽ đuổi mày ra
khỏi trường nghe không ?”…Viên giám thị vẫn mặt đỏ gay , giẫm chân và hoa tay
theo đám học trò :” Lũ ăn cắp . Tao sẽ đuổi hết chúng mày ra khỏi đây. Voay-u…”
“ Bỗng có tiếng tát đôp
đốp . Trong lúc mọi nguời chú ý cả vào cuộc khám thì viên đốc Tây đã ra đứng
đằng sau các hàng xem xét và bắt được một học sinh năm thứ ba đang móc túi vứt
đi một tờ truyền đơn. Y kéo tai đứa nhỏ lôi
đi sênh sệch…”
Hiệu trưởng và giám thị kiểu này chắc không phải ở các trường
Albert Sarraut, Puginier, Sainte Marie…tại Hà Nội thời đó mà chắc là ở…Nam Vang
nơi ông nhà văn đã sinh ra và lớn lên chăng ?
(còn tiếp)
Bọn hut máu hút mủ đồng bào Đình Thỉ tả cho đến ngÀy nay vẫn rất đÚng, chỉ đổi tên thôi :QUAN CỘNG SẢN.
Trả lờiXóaNói thẳng ra,nhà văn gọi là "cách mạng" thì thưòng có nhiệm vụ
Trả lờiXóamột chiến sĩ,nghĩa là phải "lên gân" cho mình và cho cả xã hội.
Nói khác đi là họ cần "trình diễn lập trường" hết lòng đi theo
cách mạng (CS),nên phải nói tốt cho C.S. và hạ nhục đối thủ.
Điều này cũng được áp dụng cho những thành phần khác đi theo CS.
Do đó,người ta không lạ gì những kẻ mới giác ngộ(chủ nghĩa CS.)ở vùng quốc gia thường chứng minh lập trường của mình bằng hành động
thiên tả cực đoan để "lập công dâng Đảng".
Chính đó là lý do hợp lý nhất để giải thích biến cố "chôn sống người "(không theo cộng sản) trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế.
những gì cac nhà văn cah1 mạng tương tượng về chính quyền thuộc địa nay nó nhập vào các đầy tớ cách mạng, họ đem những điều đó ra thưc thi với dân cho có bài bản
Trả lờiXóaThế là đã được một khúc từ số 56 đến đây. Việc so sánh các nhân vật của NĐT với các nhân vật trong các truyện của các nhà văn khác cho thấy bác Nhật Tuấn phải khảo rất nhiều; Tự nhiên cho ý nghĩ: Vậy thì NĐT làm "tổng thư ký" là đúng rồi! :-).
Trả lờiXóaNhưng cũng phải có lời tán thán công sức của bác: Viết lên mỗi số không phải ... dễ như thổi bễ.
Xin trân trọng cảm ơn và chức Anh Sức khỏe cùng An lạc.
Kính bút.